I. NGUYÊN NHÂN
Thứ nhất: Ham lợi ích vật chất là yếu tố đầu tiên dẫn đến việc buôn bán phụ nữ và trẻ em, do cả hai phía: Kẻ buôn người bất chất pháp luật và đạo lý để thu lợi bất chính. Nạn nhân thì bị lừa dối về lợi ích kinh tế mà bọn buôn người đưa ra.
Thứ hai: Trình đé dân trí thấp, hạn chế trong việc tiếp cận thông tin, đặc biệt là thông tin liên quan đến nạn buôn bán người… là những tồn tại phổ biến của người dân địa phương.
Thứ ba: Thất học, thất nghiệp, bạo lực gia đình và chồng nghiện ma túy hoặc chồng đi tù về tội ma túy. Nạn nhân sống tình trạng tráng nản, không có việc làm, thiếu kiến thức về pháp luật là những điều kiện thuận lợi cho bọn buôn người tiếp cận, lôi kéo, dụ dỗ, rủ rê.
Thứ tư: Do một số xã, thị trấn còn xem nhẹ chưa xác định rõ về phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em là một nhiệm vụ quan trọng và yêu cầu có sự phối hợp đồng bộ của nhiều cấp, nhiều ngành, chính quyền, gia đình, lực lượng Công an và nhân dân…, dẫn đến việc thiếu các chương trình cụ thể.
Thứ năm: Công tác tuyên truyền còn dàn trải, chưa đủ sức thuyết phục, nhiều khi còn mang tính phong trào, thời vụ; công tác giáo dục, phổ biến pháp luật còn hạn chế. Công tác phòng ngừa, đấu tranh đạt kết quả thấp, chưa tương xứng với các giải pháp đề ra.
Thứ sáu: Công tác xác minh, tiếp nhận, hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng cho nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về còn lúng túng. Các nạn nhân trở về được với gia đình, địa phương là một may mắn lớn của họ, song khi niềm vui vừa qua đi thì nỗi lo đã ập đến. Họ sẽ làm gì vượt qua những mặt cảm, sự kỳ thị, sẽ làm gì để sinh sống, để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.
II- CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA
1. Thông tin, tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em: Thực hiện các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức và kỹ năng phòng ngừa cho người dân địa phương nói chung và xã, bản, tổ dân phố nói riêng; nhất là những phụ nữ và trẻ em dễ bị lôi kéo, dụ dỗ, rủ rê, lừa gạt thông qua các câu lạc bộ phòng chống mua bán người.
2. Tư vấn về phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em: Bao gồm tư vấn cá nhân và các cuộc họp cộng đồng, đặc biệt nên tiến hành ở các buổi họp bản, tổ dân phố, các trường tiểu học, trung học cơ sở. Phối hợp triển khai các dự án về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em do các tổ chức quốc tế tài trợ với hoạt động của địa phương.
3. Quản lý tốt về an ninh, trật tự, tạm trú, tạm vắng; các gia đình tự quản lý tốt con cái hoặc vợ của mình (nếu thấy có người lạ đến bản, tổ dân phố liên hệ điện thoại phải báo cáo ngay cho UBND xã hoặc Công an cấp xã) là biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tiến tới loại trừ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến nguy cơ buôn bán phụ nữ và trẻ em.
4. Quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ: Một số lĩnh vực kinh doanh dịch vụ nhạy cảm dễ có nguy cơ bị lợi dụng để buôn bán phụ nữ, trẻ em.
5. Lồng ghép nội dung phòng ngừa buôn bán phụ nữ, trẻ em vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương (xã, thị trấn mình).
6. Tạo công ăn việc làm giúp người dân có thu nhập và tăng thêm cho họ nhận thức, sự hiểu biết về mọi mặt, trong đó có nhận thức về hoạt động lừa đảo nói chung và dụ dỗ, rủ rê, lừa gạt phụ nữ, trẻ em nói riêng.
7. Tạo cho họ nhớ số điện thoại của người thân, số điện thoại của Ủy ban nhân dân xã, số điện thoại đường dây nóng của Công an huyện, Công an xã.
III. XỬ LÝ HÌNH SỰ ĐỐI VỚI HÀNH VI MUA BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định những tội phạm về hành vi buôn bán phụ nữ, trẻ em như sau:
Điều 119: Tội mua bán người
1. Người nào mua bán phụ nữ thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm:
a. Mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm;
b. Có tổ chức;
c. Có tính chất chuyên nghiệp;
d. Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
đ. Để đưa ra nước ngoài;
e. Mua bán nhiều người;
g. Mua bán nhiều lần.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
Điều 120: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.
1. Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a. Có tổ chức;
b. Có tính chất chuyên nghiệp;
c. Vì động cơ đê hèn;
d. Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt nhiều trẻ em;
đ. Để đưa ra nước ngoài;
e. Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo;
g. Để sử dụng vào mục đích mại dâm;
h. Tái phạm nguy hiểm;
i. Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc phạt quản chế từ một năm đến năm năm./.
Lý A Lử, Phòng Tư pháp huyện Mù Cang Chải.
![]() |