Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đặc biệt là thực hiện chủ đề năm 2018 về xây dựng phong cách tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên với các nội dung về: Phong cách dân chủ, phong cách quần chúng, phong cách khoa học, phong cách nêu gương, và phong cách lãnh đạo.
Trong các phong cách đó tôi tâm đắc nhất là phong cách Quần chúng của Hồ Chí Minh - đây là một trong những phong cách đặc sắc nhất của Người. Phong cách này được bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Quần chúng người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người yêu cầu cán bộ phải gần dân, sát dân, lắng nghe dân, yêu thương dân hết mực, làm việc gì cũng phải nghĩ đến lợi ích của dân, lợi ích của đất nước.
Chính vì vậy, Phong cách quần chúng của Bác luôn hiện hữu trong đời sống hàng ngày khi tiếp xúc với mọi người, bằng tình cảm, lòng yêu thương, chia sẻ cũng như thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Tình thương bao la của Bác được nhà thơ Tố Hữu thể hiện bằng những câu thơ đầy cảm xúc:
“Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người”.
Và điều đó đã được thể hiện rất rõ qua Câu chuyện “Bác Hồ đến thăm người nghèo được trích từ “Kể chuyện Bác Hồ”, tập 7 của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam năm 1988.
Chuyện kể rằng: Tối 30 Tết năm Nhâm Dần (1962), đường phố Hà Nội mịt mờ trong làn mưa bụi. Trời rét, xe ô-tô đưa Bác đến đầu phố Lý Thái Tổ thì dừng lại. Bác tới thăm gia đình chị Chín. Bác chọn một gia đình có nhiều khó khăn để đến thăm và chúc Tết. Chồng chị Chín mất, để lại 3 đứa con nhỏ. Chị không có công việc ổn định, gặp việc gì làm việc đó để lấy tiền nuôi con.
Bác bước vào nhà, chị Chín sửng sốt nhìn Bác. Chiếc đòn gánh bỗng rơi khỏi vai chị. Chiếc thùng sắt rơi xuống đất kêu loảng xoảng. Mấy cháu nhỏ kêu lên: ‘Bác! Bác Hồ!” rồi chạy lại quanh Bác. Lúc này chị Chín mới như chợt tỉnh, chị chạy tới ôm choàng lấy Bác rồi bỗng nhiên khóc nức nở. Đôi vai gầy sau nàn áo nâu bác rung len từng đợt... Bác đứng lặng, hai tay Người nhè nhẹ vuốt lên mái tóc chị Chín. Chờ cho chị bớt xúc động, Bác an ủi:
- Năm mới sắp đến, Bác đến thăm thím, sao thím lại khóc?
Tuy cô nén, nhưng chị Chín vẫn không ngừng thổn thức, chị nói:
- Có bao giờ ....... có bao giờ chủ tịch nước lại tới thăm nhà chúng con..., mà bây giờ mẹ con chúng con lại được thấy Bác ở nhà. Con cảm động quá! Mừng quá... thành ra con khóc. Bác nhìn chị Chín, nhìn các cháu một cách trìu mến và bảo:
- Bác không tới thăm những người như mẹ con thím thì thăm ai?
Người xoa đầu các cháu và cho các cháu kẹo, rồi hỏi chị Chín:
- Thím hiện nay làm gì?
- Dạ, cháu làm phu khuân vác ở Văn Điển ạ!
- Như vậy là làm công nhân chứ! Sao lại gọi là phu ?
- Vâng ạ, cháu trót quen miệng như trước kia.
- Thím vẫn chưa có công việc ổn định à ?
- Dạ, cháu đã ngoài 30 tuổi, lại kém văn hoá nên tìm việc có nghề nghiệp cũng khó.
Bác quay sang nhìn đồng chí Phó Bí thư Thành uỷ và đồng chí Chủ tịch Uỷ ban Hành chính thành phố Hà Nội, Bác lại hỏi:
- Mẹ con thím có bị đói không?
- Thưa Bác, hồi Tây còn ở đây thì dẫu có cả bố cháu cũng vẫn đói ạ! Bây giờ bố cháu mất rồi, nhưng đói thì không ngại, rét cũng không lo, song việc chi tiêu thì còn chắt chiu lắm ạ!
Nói tới đây chị lại rơm rớm nước mắt... Bác chỉ vào cháu lớn nhất và hỏi:
- Cháu có đi học không?
- Chị đỡ lời cho con. Dạ, cháu đang học lớp bốn ạ! Cháu nó vất vả lắm! Sáng đi học, chiều về phải trông các em và đi bán kem hoặc bán lạc rang để đỡ đần cháu... Còn đây là cháu thứ hai thi học lớp ba, cháu thứ ba thì học lớp hai. Dạ, khó khăn nhưng vợ chồng cháu trước đã dốt nát, nay cũng phải cố cho các cháu đi học.
Bác tỏ ý bằng lòng. Người ân cần dặn dò việc làm ăn và việc học tập cho các cháu. Đọc đến đây, chắc hẳn mỗi chúng ta ai cũng sẽ càng cảm thấy sự quan tâm hết thảy của một vị lãnh tụ, Người quan tâm từ trẻ nhỏ, từ việc học hành. Chắc hẳn ai cũng còn nhớ món quà nhỏ Bác dành cho thế hệ măng non học tập:
Vở này ta tặng cháu yêu ta
Để tỏ chút lòng thương cháu gọi là
Mong cháu ra công mà học tập
Mai sau giữ nước non nhà
Ở nhà chị chín đến lúc này, nhân dân trong ngõ đã tới quây quần trước sân. Bác bước ra thăm hỏi và chúc Tết bà con. Một lúc sau, mọi người cùng mẹ con chị Chín theo tiễn Bác ra xe. Khi chiếc xe từ từ lăn bánh, mấy mẹ con chị vẫy chào Bác nhưng nét mặt chị vẫn bàng hoàng như việc Bác vào thăm Tết nhà chị không rõ là thực hay hư. Trên đường về Phủ Chủ tịch, mưa xuân vẫn như rắc bụi, vầng trán mênh mông của Người còn đượm những nét suy tư.
Sau Tết, Bác đã chỉ thị cho Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội phải chú ý tạo công ăn việc làm cho những người lao động gặp nhiều khó khăn như chị Chín.
Câu chuyện đã khép lại song nó chứa đựng nhiều bài học lớn. Đó là bài học về tình yêu thương quý trọng con người và bài học về đạo lý làm người. Người dành tình thương yêu cho tất cả, chia sẻ với mỗi người những nỗi đau, mọi khó khăn đối với người nghèo, người lao động. Người nói:“Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”.
Câu chuyện Người đến thăm và chúc lết gia đình chị Chín, một gia đình có hoàn cảnh rất khó khăn (nhà nghèo, chồng mất sớm, con nhỏ dại) và Bác đã đến tận nơi, chứng kiến tận mắt hoàn cảnh sống của mẹ con chị. Những lời nói, cử chỉ của Bác thật ân cần, trìu mến đã xoá đi khoảng cách giữa Bác là chủ tịch nước với chị Chín - người dân lao động bình thường trong xã hội. Với biết bao công việc bộn bề... vậy mà Người vẫn dành thời gian để đến thăm những gia đình nghèo khổ khi năm cũ sắp qua - xuân mới đã về ... trong cái đêm sương giá lạnh. Cuộc gặp gỡ giữa Bác và gia đình chị Chín thật ngắn ngủi, thật bất ngờ nhưng đã để lại trong lòng mẹ con chị một dấu ấn khó quên. Mẹ con chị được tiếp thêm ngọn lửa ấm áp tình thương yêu từ con người của Bác, giúp chị vững bước vượt qua gian lao, vấtt vả để vươn lên trong cuộc sống đời thường.
Đối với tôi, tình yêu thương con người của Bác không màu mè, không tô vẽ, không sắp đặt, không trau chuốt, tự nhiên thuần khiết. Tình yêu thương con người ấy có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, nó giúp cho con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng vượt lên được số phận, vượt lên chính mình, tạo cho con người niềm tin vào cuộc sống, đem lại hạnh phúc cho con người, đúng như lời một nhà thơ đã viết:
"Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
Chỉ biết quên mình, cho hết thảy
Như dòng sông, chảy nặng phù sa”
Vâng lời Bác Hồ dạy, nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái nói chung và nhân dân các dân tộc huyện Mù Cang Chải nói riêng. Trong đó, có các nhà giáo làm công tác giáo dục như chúng tôi. Trải qua gần 60 năm, các thể hệ cán bộ, nhà giáo ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Mù Cang luôn nhận thức rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình để không ngừng học tập nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực công tác, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống và phấn đấu hoà thành tốt nhiệm vụ được giao. Luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống, vật chất tinh thần cũng như lắng nghe và thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của người cán bộ, đảng viên, nhân viên và học sinh trong toàn ngành. Làm tốt công tác giáo dục để chất lượng năm sau cao hơn năm trước. Thực hiện tốt và hoạt động nhân đạo từ thiện do các cấp và của ngành phát động.
Đặc biệt, với sự nghiệp giáo dục vùng cao còn gặp nhiều khó khăn trở ngại, sự quan tâm của cha mẹ chưa nhiều, và không phải ai cũng hiểu hết về giáo dục nên trong những năm qua, người làm công tác giáo dục đã nỗ lực, hy sinh để bám trường, bám lớp, gần dân, chia sẻ với những khó khăn với nhân dân, gắn bó với người dân để thực hiện tốt công tác dân vận khéo, để tuyền tuyền, vận động học sinh ra lớp. Như 1 lời bài hát có câu:
“Có những chiều ngồi bên bếp ấm / Cô giáo đọc tin tá thắng giặc thù
Có những nhiều cùng dân lên rẫy / Lúa mượt mà xanh bóng cô vun trồng
Các thầy giáo, cô giáo thực sự là những chiến sỹ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Đã góp phần to lớn vào thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Từ một ngành Giáo dục vào năm 1959, với quy mô lớp toàn huyện mở được 13 lớp vỡ lòng với 300 học sinh, 14 lớp bố túc với 350 học viên, 13 xã, mỗi xã có 1 đồng chí làm Hiệu trưởng kiêm giáo viên giảng dạy. Đến nay, sau gần 60 năm quy mô mạng lưới trường lớp ngày càng được mở rộng, đã đáp ứng được yêu cầu dạy và học. Toàn huyện hiện có 37 trường, 570 lớp với 18.793 học sinh, chất lượng giáo dục ngày một chuyển biến.
Thế hệ các nhà giáo chúng tôi ngày hôm nay, phải tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tiếp tục tu dưỡng, rèn luyện, đạo đức lối sống, tác phong của 1 nhà giáo, của 1 cán bộ, đảng viên. Luôn đoàn kết yêu thương nhau, sống chan hòa, biết chia sẻ những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống, đồng thời làm tốt công tác dân vận khéo, cùng giúp nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ trồng người mà Đảng và Nhà nước giao phó, để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị tại địa phương huyện Mù Cang Chải.
Đào Thị Thu Thủy
Ban Tuyên giáo Huyện ủy Mù Cang Chải
Tin khác